BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực chuyên môn.
3. Tác giả:
Họ và tên: Đoàn Thị Yến
Ngày/tháng/năm sinh: 11/08/1995
Chức vụ, đơn vị công tác: Trường Tiểu học Hùng Tiến
Điện thoại DĐ: 0375569968
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến
Đơn vị: Trường Tiểu học Hùng Tiến
Địa chỉ: Xã Hùng Tiến - huyện Vĩnh Bảo - TP Hải Phòng.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP ĐÃ BIẾT
1. Mô tả giải pháp
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt. Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh( HS) tạo lập văn bản, góp phần dạy HS sử dụng Tiếng việt trong đời sống sinh hoạt. Để làm được một bài văn không những HS phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe - nói - đọc - viết mà còn phải vận dụng các kỹ năng về Tiếng việt, về cuộc sống thực tiễn. Vì vậy Tập làm văn có tính tổng hợp, có liên quan mật thiết đến các môn học khác.
Dạy phân môn Tập làm văn được tốt tức là người giáo viên (GV) đã xâu chuỗi kiến thức từ các phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Trong giờ tập làm văn HS được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập (nói, viết) xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành văn bản. Bên cạnh đó HS còn tập kể lại được những mẫu chuyện được nghe thầy, cô kể trên lớp. Qua từng nội dung bài dạy, phân môn tập làm văn nhằm bồi dưỡng thái độ ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng tình cảm lành mạnh tốt đẹp cho HS.
Để thực hiện tốt mục tiêu của môn học đòi hỏi người thầy phải biết vận dung linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ và tâm lí lứa tuổi HS để giờ học diễn ra tự nhiên, nhẹ nhàng và có hiệu quả. Đó là lí do tôi chọn “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3” để nghiên cứu và áp dụng vào thực tế lớp tôi chủ nhiệm, với mong muốn giúp HS mạnh dạn, tự tin và ham thích học Tập làm văn.
2. Thực trạng giải pháp đã biết
a) Ưu điểm giải pháp đã biết: Qua giảng dạy lớp 3, tôi đã đưa ra và trải nghiệm nhiều biện pháp giảng dạy đối với phân môn Tập làm văn ở trường tôi, đó là: Tìm hiểu kĩ mục tiêu, nội dung bài dạy rồi soạn bài, lên lớp truyền đạt đầy đủ những nội dung mà mục tiêu yêu cầu, kết hợp nhiều phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
- Trong giảng dạy tôi cũng đã mở rộng nội dung bài dạy cho phù hợp với
nhiều đối tượng học sinh, học tập thực hành phù hợp để ôn tập kiến thức và kĩ năng trong từng giai đoạn học tập của học sinh. Nhìn chung, học sinh có hứng thú học tập, cơ bản học sinh đều hiểu bài và làm văn khá tốt, biết cách trình bày bố cục và diễn đạt văn.
b) Hạn chế, bất cập của các giải pháp đã biết: Những giải pháp đã áp dụng trước đây đã có những thay đổi về việc giảng dạy của giáo viên cũng như học tập của học sinh, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại, đó là:
+ Về phía Giáo viên: Cách tổ chức các hoạt động trong giờ Tập làm văn còn lúng túng. GV chưa biết nội dung trọng tâm cần truyền tải đến học sinh mà chỉ biết dựa vào sách giáo viên, thậm chí đi theo sự hướng dẫn trong SGV để dạy bài nào cũng giống bài nào. Đồng thời khi dạy cho HS “Kể hay nói, viết về một chủ đề” GV chỉ có nêu nội dung mấy câu hỏi ở SGK cho HS trả lời bằng miệng sau đó yêu cầu HS viết về chủ đề đó. Do vậy mà hiệu quả giờ dạy chưa cao, HS thực hành viết bài chưa được, đặc biệt là những HS yếu.
+ Về phía Học sinh: Chưa xác định được trọng tâm đề bài. Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng. Nhiều em chưa biết dừng lại để nói kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật; Không biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật khi quan sát. Vốn từ nghèo nàn, không biết sắp xếp để bài viết mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật, về một con người cụ thể nào đó.
III. NỘI DUNG GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
II.1. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến
1. Biện pháp 1. Dạy học phát huy tính tích cực của HS trong các giờ học.
a) Biện pháp dạy học tích hợp liên môn
Với thể loại nói - viết trong phân môn Tập làm văn lớp 3, HS được rèn luyện kĩ năng nói dựa trên những gợi ý ở SGK và viết một đoạn văn ngắn khoảng 5 đến 6 câu với các chủ đề:
+ Nói về quê hương; Nói về gia đình; Nói về người lao động.
+ Kể về buổi biểu diễn nghệ thuật; Kể vể lễ hội; về trận thi đấu thể thao.
+ Bảo vệ môi trường…
Do khả năng tư duy của HS còn hạn chế, óc quan sát, trí tưởng tượng không phong phú lại chưa có vốn sống, vốn hiểu biết nhiều nên đa số các em chỉ biết trình bày đoạn văn một cách hạn hẹp theo nội dung đã gợi ý trong sách giáo khoa và của giáo viên đưa ra. Từ đó bài văn nói - viết nghèo nàn về ý, gò ép, thiếu sự hồn nhiên, sáng tạo. Ở lớp 3 mỗi một chủ điểm đều được học trong 2 tuần và có từ 1-2 tiết Tập làm văn là rèn kĩ năng nói, viết về một đề bài theo chủ điểm được học. Vì vậy, dạy Tập làm văn, tôi đã dạy tích hợp liên các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện có trong chủ điểm đó giúp HS biết cách
tích lũy vốn kiến thức, vốn từ ngữ để vận dụng vào các bài Tập làm văn.
Ví dụ : Ở tuần 22 - chủ điểm Sáng tạo, tiết Tập làm văn có bài tập:
+ Bài 1 : Hãy kể về một người lao động trí óc mà em biết.
+ Bài 2: Viết những điều em vừa kể thành một đoạn văn từ 7-10 câu.
- Tôi đã định hướng cho HS ngay khi dạy bài Tập đọc trong chủ điểm sáng tạo đó là bài: “Nhà bác học và bà cụ” để HS hiểu được nhà bác học Ê-đi- xơn là một nhà bác học đại tài, ông là người nghiên cứu và phát minh ra rất nhiều công trình khoa học vĩ đại cho nhân loại, là người có tấm lòng yêu thương mọi người và luôn mong muốn mang đến những điều tốt nhất cho con người.
- Không chỉ có vậy, ngay trong tiết Luyện từ và câu tôi cũng đã giúp HS hệ thống được các từ ngữ nói về chủ điểm “Sáng tạo” như những từ ngữ chỉ trí thức: bác sĩ, dược sĩ, nhà văn, nhà bác học,…và từ ngữ chỉ hoạt động của trí thức: nghiên cứu, chế tạo thuốc, khám bệnh,…mà các em có thể định hướng và vận dụng vốn từ ngữ vào nói, viết bài tập làm văn.
- Để tránh tình trạng sử dụng từ ngữ không phù hợp, tôi cho HS tìm các từ ngữ chỉ trí thức và chỉ hoạt động của trí thức nhằm giúp các em tích lũy được vốn từ ngữ khi nói và viết về một người lao động trí óc. Sau khi HS học xong các tiết: Tập đọc; Luyện từ và câu bài: “Mở rộng vốn từ sáng tạo”; Chính tả, Kể chuyện, … HS đã có thêm vốn từ để chuẩn bị cho bài nói, viết về người lao động trí óc.
b) Biện pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong việc tìm hiểu nội dung đề bài:
Ở mỗi đề bài Tập làm văn, tôi cho HS tự xác định rõ yêu cầu các bài tập. Bên cạnh đó, tôi giúp học sinh nắm vững hệ thống câu hỏi gợi ý. Các câu hỏi gợi ý này sắp xếp hợp lí như một dàn bài của một bài Tập làm văn; HS dựa vào gợi ý để luyện nói, sau đó viết thành một đoạn văn ngắn. GV cần cho học sinh đọc toàn bộ các câu gợi ý để hiểu rõ và nắm vững nội dung từng câu; từ đó giúp các em trình bày đoạn văn rõ ràng, mạch lạc đủ ý, đúng từ, đúng ngữ pháp. Giúp HS nắm vững nội dung từng câu hỏi gợi ý sẽ hạn chế được việc trình bày ý trùng lặp, chồng chéo, không có sự liên kết giữa các ý với nhau trong đoạn văn.
Ví dụ: Tuần 26:“Kể về một ngày hội mà em biết” tôi cho HS xác định rõ yêu cầu của đề bài là kể về ngày hội. Sau đó tôi định hướng cho HS tìm hiểu các câu hỏi gợi ý:
- Em định kể về hội gì? Hội đó được tổ chức ở đâu? Vào dịp nào?
- Con được đi xem hội với ai? Không khí chuẩn bị của hội thế nào?
- Mọi người đi xem hội thế nào? Hội có những hoạt động gì? Có những trò chơi nào được tổ chức?
- Cảm nghĩ của con sau khi được xem hội thế nào?
2. Biện pháp 2. Hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn.
a) Hướng dẫn học sinh biết hồi tưởng:
- Trong một tiết Tập làm văn với một đề tài nào đó, HS có thể quên một số hình ảnh, sự việc… mà các em đã quan sát hoặc tìm hiểu qua thực tế. Giáo viên khơi gợi cho học sinh nhớ lại bằng những câu hỏi nhỏ, hình ảnh thực tế có liên quan đến yêu cầu bài tập, phù hợp với thực tế và trình độ HS để các em dễ dàng diễn đạt được đúng yêu cầu của đề tài.
- Ví dụ: Ở tuần 22 bài “Kể về một người lao động trí óc”, GV gợi ý người đó làm nghề gì? Bao nhiêu tuổi? Công việc em thường thấy là gì?
b) Hướng dẫn HS tưởng tượng, liên tưởng dựa trên kết quả đã quan sát:
- Nếu trong một bài Tập làm văn, HS chỉ biết diễn đạt nội dung bằng những gì đã quan sát hoặc thực hành một cách chính xác theo các gợi ý; bài làm như thế tuy đủ ý nhưng không có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, người nghe. Vì vậy, với từng đề bài tôi có những câu hỏi gợi ý, khuyến khích HS liên tưởng, tưởng tượng thêm những chi tiết một cách tự nhiên, chân thật và hợp lí qua việc sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá, để từ đó HS biết trình bày bài văn giàu hình ảnh, sinh động, sáng tạo.
Ví dụ: Ở tuần 29: Kể lại một trận thi đấu thể thao
- Xem ảnh chụp buổi thi chạy, có HS nói:“Các vận động viên bắt đầu xuất phát với các bước chạy khỏe khoắn”. Cũng có học sinh khác nói:“Khi gần tới đích, các vận động viên dồn sức vào các bước chạy cuối cùng để cán đích.”
- Như vậy, cùng một tấm ảnh chụp nhưng mỗi HS lại có các cách liên tưởng khác nhau. Trí tưởng tượng ở HS lớp 3 rất hồn nhiên ngây thơ và ngộ nghĩnh, hơn nữa các em cũng đã được học về phép so sánh, nhân hóa cho nên cách liên tưởng của các em rất thú vị. Ngoài ra tôi đưa thêm một số hình ảnh về các môn thi đấu thể thao khác để HS có thể tưởng tượng và viết được đúng yêu cầu, rõ ràng các ý của bài văn viết về một buổi thi đấu thể thao.
3. Biện pháp 3. Rèn kĩ năng diễn đạt khi nói và viết cho học sinh.
a) Rèn kĩ năng nói cho học sinh:
- Tôi yêu cầu HS trình bày bài nói theo các bước sau:
+ Bước 1: Nói dưới hình thức trả lời theo các câu hỏi gợi ý (dành cho những HS trung bình)
+ Bước 2: Nói gộp từ 2 - 3 câu hỏi một lúc, có liên kết các câu với nhau
(dành cho HS khá)
+ Bước 3: Nói thành bài văn (dành cho HS giỏi)
b) Rèn kĩ năng viết cho học sinh:
- Nói được là sẽ viết được. Tuy nhiên giữa nói và viết một văn bản cũng có sự khác nhau. Khi viết, mỗi câu văn cần phải rõ ý, đủ thành phần chính của câu. Ngoài ra, GV cần hướng dẫn cho HS cách trình bày một bài viết, cách dùng từ ngữ, viết câu chính xác, các ý diễn đạt có thứ tự hợp lý. GV cần phải khuyến khích, động viên, ghi nhận những HS có ý tưởng hay, bài viết sáng tạo để khen ngợi và nhân rộng đối với HS khác. Ngoài việc chú ý về nội dung, khi viết cũng cần chú ý tới hình thức trình bày, nhắc nhở HS về chữ viết, lỗi chính tả.
4. Biện pháp 4. Tìm hiểu nội dung câu chuyện và kể lại trong dạng bài Nghe - kể ở phân môn Tập làm văn Lớp 3.
- Để hoạt động của tiết học dạng đề trên đa dạng hơn, HS vui và tích cực học hơn, giờ học có hiệu quả hơn nhất là những HS trung bình và yếu. Tôi xin đề nghị thêm một số phương án dạy học như sau:
Cách 1:
- Cho HS xem tranh và đoán nội dung chuyện. GV ghi vài điều cơ bản (nhân vật, một vài sự kiện) mà HS đoán được lên bảng.
- HS nghe GV kể chuyện hai lần.
- HS đối chiếu giữa nội dung chuyện vừa được nghe với nội dung mình đã đoán để điều chỉnh những điều đã được ghi trên lớp.
- HS trao đổi về một vài điều thú vị trong chuyện hay ý nghĩa của chuyện.
- HS kể lại chuyện theo cặp (theo nhóm)
- Đại diện vài nhóm HS kể lại chuyện trước lớp (có thể nhập vai kể)
- HS nhận xét, GV bổ sung, nhận xét chung.
Ví dụ: Nghe kể lại câu chuyện: Dại gì mà đổi (BT1-TV3, tập 1- tr36)
- Nội dung câu chuyện trong SGV (TV3-tập 1 tr103).
1. Chuẩn bị
- Tranh vẽ ở SGK phóng to
- Phiếu bài tập: Em hãy xem tranh và đoán thử xem nội dung chuyện theo bảng sau và điều chỉnh lại khi nghe chuyện.
Câu chuyện có mấy nhân vật
|
.................................
|
................................
|
Họ đang làm gì?
|
..................................
|
................................
|
Người mẹ đã nói với con điều gì? người con trả lời mẹ ra sao?
|
..................................
……………………...
|
................................
……………………
|
2. Cách tiến hành:
- GV treo tranh vẽ trên bảng, chia nhóm HS và phát phiếu học tập cho các nhóm, cho HS đọc yêu cầu của bài tập ghi trên phiếu và tiến hành làm bài tập a.
- GV theo dõi và gọi đại diện nêu một số ý và giáo viên ghi lên bảng.
- GV kể chuyện 2 lần (nội dung chuyện có trong SGV) HS đối chiếu giữa
nội dung chuyện vừa được nghe với nội dung mình đã đoán để điều chỉnh ở phần b của bài tập.
Ví dụ:
Câu chuyện có mấy nhân vật
|
Chuyện có hai nhân vật
|
Chuyện có hai nhân vật
|
Họ đang làm gì?
|
Họ đang nói chuyện với nhau
|
Người mẹ dọa sẽ đổi cậu bé để lấy một đưa con ngoan về nuôi.
|
Người mẹ đã nói với con điều gì? người con trả lời mẹ ra sao?
|
Người mẹ nói với con phải ngoan, nghe lời mẹ. Người con ngồi im lặng.
|
Người mẹ nói sẽ đối con để lấy đứa con ngoan về nuôi. Người con trả lời với mẹ là mẹ chẳng bao giờ đổi được đâu vì không ai dại gì mà đổi đứa con ngoan lấy đưa con nghịch ngợm cả.
|
- GV bao quát lớp, kèm cặp thêm cho HS trung bình và yếu
- Cho HS trao đổi về một điều thú vị trong truyện hay nêu ý nghĩa chuyện: câu chuyện buồn cười ở chỗ nào? GV chốt lại nội dung: Không ai dại gì mà đổi một đứa con ngoan lấy một đứa con nghịch ngợm cả.
- Cho HS kể lại chuyện theo nhóm.
- Đại diện nhóm kể lại trước lớp. HS nhận xét bổ sung, GV nhận xét.
Cách 2:
- GV kể chuyện lần 1 kết hợp hướng dẫn HS nắm các nhân vật có trong chuyện.
- GV kể lần 2, HS nghe rồi hoàn thành các sự kiện trong các khung còn trống của sơ đồ trình tự câu chuyện trên phiếu. GV có thể để trống tất cả các ô hoặc viết sẵn ý trong một vài ô. Các ô khác HS nghe rồi hoàn thành sơ đồ trình tự
câu chuyện . Sau khi hoàn thành sơ đồ trình tự câu chuỵện, HS trao đổi sửa chữa.
- HS dựa vào trình tự câu chuyện để kể lại chuyện theo nhóm (hay cặp).
- Đại diện nhóm kể lại trước lớp.
- HS trao đổi ý nghĩa câu chuyện, cả lớp theo dõi nhận xét, GV bổ sung nhận xét chung.
Ví dụ minh hoạ: Nghe - kể lại chuyện: Không nỡ nhìn. (BT1-SGK - TV3-Tập 1-Tr.61)
- Nội dung câu chuyện trong SGV TV3 (tập 1-tr103).
1. Chuẩn bị:
- Tranh vẽ ở sách giáo khoa phóng to
- Phiếu học tập: Sơ đồ trình tự câu chuyện
2. Cách tiến hành:
- GV kể chuyện lần 1 và hỏi HS: Câu chuyện có mấy nhân vật? Ở đâu?
- HS sẽ trả lời:
+ Câu chuyện có hai nhân vật.
+ Chuyện xảy ra trên chuyến xe buýt.
- Giáo viên kể chuyện lần hai, học sinh nghe rồi hoàn thành các sự kiện trong khung còn trống của sơ đồ trình tự câu chuyện trên phiếu học tập. (Học sinh hoạt động theo nhóm 4)
* Một số lưu ý khi dạy dạng bài trên:
- Có rất nhiều cách để tiến hành giờ học dạy dạng bài “Nghe - kể lại chuyện”. GV có thể tuỳ vào tình hình của lớp, trình độ HS để chọn cách dạy phù hợp nhất.
- Cho dù dạy theo cách nào, GV cũng phải có sự chuẩn bị bài trước.
- Chú ý giao việc cho HS rõ ràng đặc biệt là khi hoạt động nhóm và nên theo dõi kèm cặp thêm cho HS trung bình và yếu, tạo cho các niềm tin, mạnh dạn hơn trong học tập.
5. Biện pháp 5. Tập cho học sinh cách kể hay, nói, viết về một chủ đề ở phân môn Tập làm văn Lớp 3.
Nội dung các bài tập thuộc dạng bài này nhằm rèn cho HS kỹ năng diễn đạt bằng lời nói (viết) về một chủ đề nào đó: Nói viết về thành thị hoặc nông thôn; Kể về gia đình; Kể về một buổi thi đấu thể thao...
Xem xét cách triển khai câu hỏi gợi ý ở mỗi đề, chúng ta có thể thấy dạng đề này hầu như là sự kết hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tường thuật, thuyết minh và phát biểu cảm nghĩ.
Khi dạy dạng đề này ngoài phương án được dạy theo SGV, tôi đã sử dụng “mạng ý nghĩa” để giúp HS tìm kiếm và phát triển diễn đạt ý tưởng tạo cho các em sự mạnh dạn tự tin trong học tập.
Sử dụng “Mạng ý nghĩa” là như sử dụng một đồ dùng dạy học, một biện pháp dạy học cụ thể - Sử dụng mạng ý nghĩa là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh suy nghĩ diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy học Tập làm văn. Phương pháp này hướng đến việc cá thể hoá tối đa hoạt động nói và viết của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được chuẩn mực cơ bản của một thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất cái tôi của mỗi học sinh trên cơ sở khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em cũng như những ý
tưởng và ngôn từ trong các bài đọc theo chủ đề mà các em đã được học trong SGK.
* Tiến trình thực hiện phương pháp mạng ý nghĩa:
Hoạt động 1 : Tìm hiểu đề:
- HS định hình cụ thể đối tượng nói hay viết trong trí nhớ đồng thời biết đối tượng đó là ai? Là gì? ở đâu? Lúc nào?...vào khung chủ đề. Trong trường hợp dùng vật thật hay tranh ảnh thì khung chủ đề cũng chính là chúng.
- Để thực hiện hoạt động này GV có thể sử dụng một trong các bước sau:
+ GV trò chuyện khơi gợi rồi đề nghị HS nhắm mắt nghĩ về đối tượng,
+ Tạo tình huống khơi gợi rồi đề nghị HS nghĩ đến chủ đề hay đề tài.
+ Kể một mẫu chuyện nhỏ kết hợp đặt câu hỏi hướng HS đến đề tài.
+ Dùng tranh ảnh hoặc mẫu vật thật do GV mang đến lớp hay do HS tự sưu tầm.
+ Sử dụng một đoạn văn mẫu lấy từ bài tập đọc đã học hay từ các bài làm của HS.
Hoạt động 2: Tìm ý:
- HS tập trung động não nghĩ về đối tượng đã xác định trong khung chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến đối tượng ấy. Khi tiến hành hoạt động này GV cần sử dụng một trong các bước sau:
+ Sử dụng hệ thống câu hỏi để kích thích và định hướng cho HS phát triển ý. Cần lưu ý câu hỏi phải có tính chất mở, hướng đến việc khơi gợi kinh nghiệm riêng của các em.
+ Đưa ra một khung mạng trong đó cho sẵn vài ý, phần còn lại để HS suy nghĩ và đưa thêm ý vào để hoàn thành mạng.
+ Đối với học sinh lớp đã quen với việc sử dụng mạng, GV nên để các em tự nghĩ và viết ra các ý mà không cần đưa một hệ thống câu hỏi hoàn chỉnh.
+ HS viết các ý dưới dạng từ hay cụm từ xung quanh chủ đề. GV tuyệt đối tránh viết chốt lại một số từ về đề bài.
Hoạt động 3: Lập dàn ý: Sắp xếp ý đã có trong mạng.
- Hướng dẫn HS đánh số thứ tự cho các ý tìm được, lưu ý trình tự chung của thể loại văn đang làm và hướng dẫn có tính chất mở (những chi tiết nào có ý nghĩa giới thiệu chung thì nói trước, ý nào miêu tả chi tiết, cụ thể thì nói sau).
- Mỗi HS xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự.
- Gọi vài HS lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã làm trước lớp để cả lớp theo dõi việc làm mẫu của một số HS.
Hoạt động 4: HS diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài dưới dạng nói hay viết:
- Nếu là bài tập nói, GV hướng dẫn HS nhìn mạng ý nghĩa của mình diễn đạt thành câu, thành bài trước lớp hay theo nhóm, cặp, theo nhóm đôi là tốt nhất.
- Nếu là bài tập viết, GV hướng dẫn HS diễn đạt mỗi từ ngữ xoay quanh mạng ít nhất một câu.
- Hình thành và phát triển “môi trường tư liệu ở lớp học” để giúp HS có điều kiện dễ dàng sử dụng từ ngữ khi tìm ý và ý thành bài:
+ Thu nhập và trưng bày các bài văn mẫu của HS khá giỏi năm trước.
+ Phân tích điểm hay của các bài đọc tiêu biểu cho các thể loại văn bản, giới thiệu thành bộ sưu tập và trưng bày.
+ Xây dựng từ điển lớp: GV đưa ra hoặc hướng dẫn HS thu nhập danh mục các từ mà các em đã biết theo chủ đề Tập làm văn trong sách giáo khoa.
+ Tập cho HS có thói quen quan tâm đến các trường hợp sử dụng từ hay trong khi đọc, kể chuyện hay luyện từ và câu.
Hoạt động 5: Trao đổi, sửa chữa và nhận xét:
- Nếu là bài nói, cho vài nhóm HS thể hiện lại trước lớp rồi tổ chức trao đổi nhận xét và rút kinh nghiệm về cách nói phù hợp với yêu cầu của nội dung và thể loại của đề bài .
- Nếu là bài viết: Tổ chức cho HS đọc sửa chữa bản nháp của mình theo hình thức nhóm/cặp (đổi vở cho nhau sửa chữa)
Hoạt động 6: Dựa vào bản nháp đã được sửa, HS viết lại bài hoàn chỉnh.
+ Ví dụ : Dạy bài: Kể về gia đình (BT1-TV3 -tập1- tr 28)
Đối với bài tập này, GV cần rèn cho HS kỹ năng nói: Kể được một cách đơn giản về gia đình mình với một người bạn mới quen.
6. Biện pháp 6. Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá.
- Tôi để cho HS được tự kiểm tra, đánh giá cho nhau. Thông qua việc kiểm tra đánh giá bài của bạn, các em sẽ phát hiện ra những sai sót để sửa chữa, đồng thời phát hiện ra những từ, ý, câu hay của bạn để học hỏi. Để làm tốt khâu này, GV cần đặt ra tiêu chí nhận xét thật cụ thể để HS có cơ sở lắng nghe và nhận xét bài của bạn. Từ nhận xét, HS có thể tự chữa lỗi hoặc giúp bạn chữa lỗi theo các hướng sau đây:
a) Hướng dẫn phát hiện và sửa lỗi về từ:
Ví dụ: “Sáng sớm, mọi người ùa nhau ra đường đi làm, đi học” GV giúp HS thấy được dùng từ “ùa” ở đây là không phù hợp với ngữ cảnh, sau đó cho HS tìm ra từ hợp lý hơn để thay thế.
b) Hướng dẫn phát hiện và sửa lỗi về câu:
- HS nói viết câu chưa hay chưa đủ ý, GV cần hướng dẫn HS sửa chữa bổ sung ý vào cho đúng; câu văn dài dòng ý chưa rõ ràng mạch lạc cần cho HS sửa sai lược bỏ ý dư, ý trùng lặp. GV khuyến khích học sinh tự sửa câu văn chưa hay của mình bằng những câu văn hay của bạn.
c) Hướng dẫn phát hiện lỗi về hình thức một đoạn văn:
- Với mỗi chủ đề của bài Tập làm văn, nếu HS trình bày đủ nội dung theo gợi ý đã cho thì bài văn của các em đạt yêu cầu về nội dung, còn về hình thức, một số em còn tự do xuống dòng, chưa đúng yêu cầu về hình thức của 1 đoạn
văn, điều này giáo viên cũng rất cần lưu tâm.
d) Hướng dẫn HS phát hiện lỗi về sự chặt chẽ liên kết trong đoạn văn:
- Khi kể về một việc làm một hoạt động nào đó, GV cần khuyến khích HS sử dụng những từ liên kết câu thể hiện trình tự diễn biến của sự việc như: “đầu tiên”; “kế tiếp”; “sau đó”; “cuối cùng” để đoạn văn gắn kết chặt chẽ liên tục từng ý với nhau.
7. Biện pháp 7. Phối kết hợp với các lực lượng giáo dục khác trong nhà trường để thực hiện tốt việc dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 3.
+ Đối với công tác Đội của nhà trường: Giáo viên Tổng phụ trách sẽ tổ chức cho HS tham gia các tiết hoạt động tập thể theo các chủ đề như: tìm hiểu về các lễ hội và hoạt động có trong lễ hội; Các buổi biểu diễn văn nghệ chào mừng các ngày lễ. Tất cả những hoạt động trong tiết hoạt động tập thể mà các em được quan sát, tìm hiểu thực tế cuộc sống sẽ là tư liệu để HS có thể vận dụng vào viết bài văn theo đề bài như: Kể lại một buổi biểu diễn nghệ thuật mà em được xem, Kể về một ngày hội mà em biết,...
+ Với môn Thể dục: Giáo viên bộ môn sẽ cho HS được học hỏi, quan sát và tham gia thi đấu các môn thể thao như: bóng bàn, bóng rổ, bóng đá, ...để từ đó hình thành cho HS có sự hiểu biết về các môn thể thao và biết vận dụng linh hoạt vào viết bài văn theo đề bài: Viết về một trận thi đấu thể thao. Chính nhờ sự quan sát thực tế một trận thi đấu thể thao qua tiết thể dục thì HS mới có thể viết được linh hoạt về một trận thi đấu thể thao mà mình đã được xem.
III.2. Tính mới, tính sáng tạo
III.2.1. Tính mới
Với đề tài này, để đem đến hiệu quả thực tế tại lớp tôi đã và đang thực hiện hiện nay, tôi đã đưa ra được một số giải pháp trong công tác giảng dạy đảm bảo các điều kiện đó là:
- Các giải pháp đưa ra không trùng với nội dung của giải pháp cũ khi chưa thực nghiệm.
- Không trùng với giải pháp của người khác đã được áp dụng.
- Chưa được quy định thành tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm bắt buộc phải thực hiện.
- Mỗi biện pháp trước khi đưa ra, tôi xác định mục tiêu của biện pháp cần đạt gì, đối tượng là ai, vận dụng như thế nào?
- Thử nghiệm dùng biện pháp đó xem có đảm bảo tính khả thi không?
- Lựa chọn, sắp xếp biện pháp nào trước, biện pháp nào sau để phù hợp.
- Mỗi biện pháp đưa ra một ví dụ hoặc một minh chứng để khảng định.
- Khi thực hiện mỗi biện pháp tôi đã khảo sát thực tế để thấy được hiệu quả đến đâu, kịp thời chỉnh sửa nếu cần.
III.2.2. Tính sáng tạo
- Rõ ràng phân môn Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng hợp các kiến thức, kĩ năng từ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,... để viết nên một bài Tập làm văn.
Theo quan điểm tích hợp, các phân môn được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy - học có hiệu quả Tập làm văn, tôi đã chú trọng dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Vì trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập luyện từ-câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên nhiên, con người. Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng, góp nhặt của người khác, nội dung bài văn không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như tâm hồn của các tác giả nhỏ tuổi.
Việc áp dụng các biện pháp khi thực hiện dạy văn cho học sinh, tôi đã chú trọng: Trong bài giảng của mình GV phải dạy thêm những kiến thức liên quan của những môn học khác ở bên ngoài để bổ sung cho chủ đề của bài học dạy cho HS. Vì vậy, mỗi GV không chỉ có sự am hiểu về riêng môn học mình dạy mà còn có những kiến thức liên môn khác được tích lũy trong quá trình dạy học nhiều năm của bản thân. Đồng thời, việc dạy và học hiện nay không đơn thuần là giáo viên giảng bài còn học sinh ở dưới lớp ghi chép như trước. Hiện nay, GV sẽ vừa truyền đạt kiến thức vừa là người kiểm tra, tổ chức và định hướng học tập cho học sinh.
* Các giải pháp đưa ra đã thể hiện rõ tính ưu việt. Đề cao hiệu quả học tập giúp HS học được nhiều kiến thức nhất, học sâu sắc nhất nhưng cũng tiết kiệm thời gian, giảm áp lực học hành cho các em.
- Phát triển năng lực cho mỗi học sinh, tạo học sinh hứng thú trong giờ học, giúp các em hiểu bài học sâu sắc ở nhiều khía cạnh hơn. Thêm nữa, các em có thể vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học vào thực tiễn tốt hơn. Từ đó, học sinh sẽ trở nên năng động hơn, biết tư duy vận dụng kiến thức các môn học khác nhau vào trong cuộc sống, tăng cường tư duy tổng hợp, khả năng tự nghiên cứu, tự học tốt hơn. Học sinh học kiến thức một cách linh hoạt, vận dụng theo cách riêng của mình. Khi nhiều môn học được tích hợp trong một chủ đề không chỉ khiến HS được học kiến thức sâu rộng, nhìn vấn đề ở nhiều góc độ bình diện mà còn giảm bớt thời gian, công sức học lại nhiều lần một nội dung kiến thức gây nhàm chán và quá tải cũng như khó vận dụng vào thực tiễn với kiến thức đơn lẻ.
- Trang bị cho học sinh lớp 3 kĩ năng làm văn, để từ đó bài làm của học sinh được cải thiện chất lượng học tập của các em cũng sẽ được nâng lên một cách đáng kể. Giúp học sinh hứng thú, yêu thích môn học.
III.3. Phạm vị ảnh hưởng, khả năng áp dụng sáng kiến
Một số biện pháp tôi nêu ra trên đây, nhà trường đã chọn để ứng dụng vào trong giảng dạy Tập làm văn đối với các lớp trong trường tôi. Các biện pháp nêu trong đề tài đều rất thông dụng và là những việc phải làm để đạt được mục tiêu của dạy Tập làm văn, chính vì lẽ đó mà có thể áp dụng cho tất cả giáo viên dạy lớp 3 trong trường và trường bạn. Thể hiện:
+ Hiện nay, 100% GV các nhà trường đều được tiếp cận với Chương trình
giáo dục mới, đều hiểu rõ việc dạy học tích hợp liên môn là cần thiết và đang được áp dụng đại trà tại các bậc học. Và mỗi GV đều thấy rõ thành phần văn trong mỗi phân môn của môn Tiếng Việt: Cảm thụ văn, học cách viết văn trong tập đọc; phát triển vốn từ, hiểu từ ngữ trong luyện từ và câu, xây dựng hình
tượng qua những câu chuyện kể, ....
+ Trong một lớp, bao giờ cũng có nhiều đối tượng học sinh khác nhau, sự tiếp thu của các em có sự khác nhau, do vậy bất kỳ giáo viên nào cũng thực hiện được nhiệm vụ này để đạt mục tiêu giáo dục.
+ Đặc biệt hiện nay phát triển văn hóa đọc đang trở thành phong trào đối với các nhà trường, ý thức đọc sách, truyện đã tạo nên một nhiệm vụ, một việc làm không thể thiếu với cả giáo viên, HS. Điều này đã hỗ trợ đắc lực cho học sinh viết văn, làm giàu hình ảnh, vốn từ ngữ, nghệ thuật viết văn của học sinh.
+ Việc lập dàn ý, hoàn thiện dàn ý, bố cục bài văn là kiến thức cơ bản, là yêu cầu, kỹ năng cần đạt của mỗi học sinh trong học văn mà do giáo viên cung cấp, vì lẽ đó mà giáo viên nào cũng phải thực hiện và thực hiện tốt.
III.4. Hiệu quả, lợi ích thu được từ sáng kiến (về mặt kinh tế, xã hội)
- Lớp tôi đã tự xây dựng “Tủ sách lớp học”, tự HS đóng góp truyện, sách, báo, tạp chí, HS được đọc hàng ngày để phát triển vốn từ giúp làm văn tốt hơn. Tận dụng tối đa công nghệ với các hình ảnh thực, cảnh vật thực, giảm bớt thời
gian, kinh phí cho việc tự làm của giáo viên mà đem lại hiệu quả cao.
- Khi nhiều môn học được tích hợp trong một chủ đề không chỉ khiến học sinh được học kiến thức sâu rộng, nhìn vấn đề ở nhiều góc độ bình diện mà còn giảm bớt thời gian, công sức, … để học lại nhiều lần một nội dung kiến thức gây nhàm chán và quá tải cũng như khó vận dụng vào thực tiễn với kiến thức đơn lẻ.
- Đào tạo cho xã hội lớp người có đủ khả năng, kỹ năng cuộc sống đáp ứng yêu cầu của giáo dục trong thời đại hiện nay.
- Tạo thói quen đọc sách, góp phần phát triển văn hóa đọc cho mỗi em.
- Tạo cơ sở tốt để học sinh học tập và tạo tiền đề cho các lớp cao hơn .
- Góp phần quan trọng hình thành tính cách của học sinh. Hình thành thái độ tự tin khi giao tiếp, giải quyết các vấn đề trong cuộc sống tốt hơn.
- Học sinh học văn tốt, phát triển được kỹ năng giao tiếp, kỹ năng trình bày một văn bản của học sinh trong vận dụng cuộc sống sau này.
- Dạy tích hợp liên môn trong Tập làm văn sẽ giúp các em có được vốn kiến thức sâu rộng, cung cấp cho các em rất nhiều vốn từ phong phú, đa dạng. Nó sẽ là hành trang tốt nhất cho tương lai của các em. Việc học tích hợp các phân môn Tập đọc; Chính tả; Luyện từ và câu; Tập làm văn sẽ giúp cho học sinh học tốt các môn học khác, đồng thời làm cho ngôn ngữ tiếng việt của học sinh ngày càng phong phú và trong sáng hơn.
|
Hùng Tiến, ngày tháng 01 năm 2022
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
Đoàn Thị Yến
|