BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Rèn kĩ năng ước lượng thương trong Phép chia cho số có nhiều chữ số.”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực chuyên môn cấp Tiểu học
3. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Liên Hương
Ngày sinh:
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên lớp 4 - Trường Tiểu học Hùng Tiến
Điện thoại: DĐ:
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường Tiểu học Hùng Tiến
Địa chỉ: xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng
Điện thoại: 0225 3 884553
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP ĐÃ BIẾT
1. Mô tả giải pháp
Tiểu học là bậc nền tảng quan trọng trong quá trình đào tạo con người nói chung và đào tạo cho lớp người mới phục vụ cho sự nghiệp CNH – HĐH đất nước nói riêng.
Chương trình toán của tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản.
Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá, khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết, các, suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo.
Dạy học bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia là một một thành phần vô cùng quan trọng trong chương trình giảng dạy môn toán ở bậc tiểu học. Học xong chương trình Tiểu học bắt buộc các em phải thành thạo bốn phép tính được thực hiện với số tự nhiên, phân số, số thập phân nhưng trong đó thực hiện phép chia là khó nhất, nhất là chia cho số có càng nhiều chữ số thì càng khó. Nội dung của việc dạy và học bốn phép tinh gắn chặt và đan xen với các nội dung toán học khác của chương trình học. Vì vậy, việc thực hiện bốn phép tính có một vị trí quan trọng thể hiện ở các điểm sau:
a) Bốn phép tính được dạy xuyên suốt và tăng dần ở chương trình tiểu học (Từ lớp 3 đến lớp 5). nó đi theo để giải quyết vấn đề của các bài toán giải, bài toán hình, . . . nếu không thực hiện thành thạo một trong bốn phép tính thì việc học toán của các em vô cùng khó khăn.
b) Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện thông qua việc cho học luyện nhiều vào các bài tập thực hiện phép tính hoặc giải
quyết bài toán giải..
c) Việc thực hiện thành thạo 4 phép tính là cơ sở ban đầu cho các em học tiếp lên các lớp trên.
d) Nội dung chương trình dạy học phép chia được xuyên vào gần hết chương trình toán 4 nhiều nhất là vào phần số tự nhiên (thực hiện 4 phép tính với số tự nhiên) và phần luyện giải các bài toán ứng dụng.
2. Thực trạng ưu điểm và hạn chế của giải pháp đã và đang áp dụng.
Những năm gần đây do ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của đổi mới phương pháp trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. các cấp quản lí đã phát động phong trào cải tiến phương pháp dạy học. Những cố gắng của các cấp quản lí giáo dục và của giáo viên đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao chất lượng giáo dục ở Tiểu học. Tuy nhiên, cũng như việc dạy và học các môn học nói chung, dạy học môn toán (dạy chia cho số có nhiều chữ số) ở lớp 4 nói riêng vẫn chưa vượt qua quỹ đạo cũ là bao.
Mặc dù đội ngũ giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc cải tiến phương pháp dạy học, song nhìn chung phần lớn giáo viên vẫn còn dạy toán theo một hệ thống phương pháp hiện có (chủ yếu là giảng giải và hỏi đáp).
Trong thực tế dạy – học Toán ở chương trình Tiểu học, tôi nhận thấy việc thực hiện phép tính “Chia cho số có nhiều chữ số” là vấn đề mà học sinh đang gặp phải khó khăn nhiều nhất (Có những học sinh đã học lên đến lớp 5 mà vẫn chưa thực hiện được phép chia, đây thật là một vấn đề nan giải!) và việc dạy cho học sinh làm thế nào để có biện pháp tính, kĩ năng tính, sự thuần thục khi thực hiện phép tính ...Đó cũng chính là điều mà bản thân tôi nói riêng cũng như các đồng nghiệp giáo viên nói chung đang quan tâm, cụ thể là:
- Qua trao đổi với đồng nghiệp thì tôi được biết việc vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học còn gặp nhiều vướng mắc nhất là vận dụng
vào dạy thực hiện chia cho số có nhiều chữ số.
- Nhiều khi giáo viên chưa thực sự chú ý đến một số thủ thuật trong dạy Toán, chưa mạnh dạn áp dụng một số sáng kiến của mình vào dạy Toán vì ngại
với chương trình mới.
- Đôi khi chưa thực sự tìm tòi, sáng tạo trong việc vận dụng các phương pháp dạy học để tìm ra cách thích hợp nhất trong dạy học nói chung và dạy toán nói riêng.
- Đối với giáo viên , việc hướng dẫn học sinh tìm cách ước lượng thương đôi khi không được chú ý một cách tỉ mỉ, chưa thực sự chú ý linh hoạt sáng tạo trong sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học.
- Trường Tiểu học Hùng Tiến có lợi thế là trường học 2 buổi/ngày, phụ huynh phần lớn quan tâm đến con em, điều kiện phục vụ cho học tập cũng đầy đủ nên chất lượng ngày càng được nâng cao. Song xét cho cùng thì việc thực hiện thành thạo 4 phép tính, nhất là phép chia của học sinh, cũng chưa được nhanh nhẹn cho lắm. Khi thực hiện phép chia các em thường mắc phải một số lỗi và khó khăn như sau:
+ Thứ nhất: Học sinh không biết vận dụng tính liên quan giữa phép nhân và phép chia.
+ Thứ hai: Khi chia ngoài bảng học sinh không hình dung được để ước lượng cho thương,
+ Thứ ba: Khi không ước lượng được thương dẫn đến kết qua sai mà không biết, do không thử lại kết quả, hoặc kéo dài thời gian làm bài và bỏ bài, . .
+ Học sinh chưa nắm được cách ước lượng thương, chưa có kĩ năng ước lượng thương . Bên cạnh đó, các em cũng chưa biết được cách làm tròn số thông qua một số thủ thuật thường dùng chẳng hạn như che bớt chữ số...
Tôi thiết nghĩ : Quả thực “ Phép chia cho số có nhiều chữ số” là một trong những phép tính khó nhất ở Tiểu học. Điểm mấu chốt trong biện pháp tính này là vấn đề ước lượng các chữ số của thương, tạm gọi tắt là “ước lượng thương”.
Việc rèn kĩ năng ước lượng thương là cả một quá trình, bắt đầu từ lớp Ba, lên lớp Bốn và lớp Năm. Ở lớp 4, việc giới thiệu và rèn kĩ năng ước lượng thương được thực hiện trong bài “Chia cho số có hai chữ số” và “Chia cho số có ba chữ số”. Lên lớp 5 lại được lặp lại qua phần “Chia số thập phân”. Thực chất của vấn đề là “ Tìm cách nhẩm nhanh thương của phép chia một số n hoặc (n+1) chữ số cho một số có n chữ số (với n = 2 hoặc 3). Nếu nắm được cách ước lượng thương và có kĩ năng ước lượng thương thì phép chia này đối với học sinh không còn là một khó khăn nữa và cũng nhờ thế mà các em dễ dàng giải các bài toán liên quan đến phép tính này không tốn nhiều thời gian, tạo thuận lợi và hứng thú cho học sinh say mê học Toán , yêu thích môn Toán.
- Những năm gần đây do ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của đổi mới phương pháp trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. các cấp quản lí đã phát động phong trào cải tiến phương pháp dạy học. Những cố gắng của các cấp quản lí giáo dục và của giáo viên đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao chất lượng giáo dục ở Tiểu học. Tuy nhiên, cũng như việc dạy và học các môn học nói chung, dạy học môn toán (dạy chia cho số có nhiều chữ số) ở lớp 5 nói riêng vẫn chưa vượt qua quỹ đạo cũ là bao.
- Mặc dù đội ngũ GV đã có nhiều cố gắng trong việc cải tiến phương pháp dạy học, song nhìn chung phần lớn GV vẫn còn dạy toán theo một hệ thống phương pháp hiện có (chủ yếu là giảng giải và hỏi đáp).
Vì vậy việc hướng dẫn và rèn kĩ năng “ước lượng thương trong phép chia cho số có nhiều chữ số” cho học sinh là việc làm cần thiết và vô cùng quan trọng trong quá trình dạy học Toán. Cũng chính vì lí do đó mà tôi quyết định chọn đề tài “Rèn kĩ năng ước lượng thương trong Phép chia cho số có nhiều chữ số”
III. NỘI DUNG GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
III.1. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến
Qua thời gian tiến hành công việc và thu được một số kết quả khả quan, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số vấn đề sau để hướng dẫn học sinh Tiểu học rèn kĩ năng “ước lượng thương” được tốt. Đây là kinh nghiệm của tôi nhưng cũng có thể đây cũng là kinh nghiệm của một số đồng nghiệp đã áp dụng, tuy nhiên với thực trạng của học sinh mình thì tôi nghĩ: việc mạnh dạn đưa ra sáng kiến của mình (có thể mọi người đã biết hoặc chưa biết) cũng không thừa. Điều quan trọng là chúng ta có cơ hội cùng thảo luận với nhau để tìm cách dạy Toán cho học sinh Tiểu học ngày một tốt hơn.
1. Công tác chuẩn bị:
* Kiểm tra phân loại học sinh:
- Bao nhiêu em đã thực hiện tốt phép chia cho số có một chữ số.
- Bao nhiêu em đã có kĩ năng “ước lượng thương” trong phép chia cho số có nhiều chữ số và ứng dụng tốt vào giải toán có liên quan.
- Bao nhiêu em chưa thực hiện phép chia được. Vì sao?
- Bao nhiêu em thực hiện phép chia còn chậm. Nguyên nhân?
* Quy định với học sinh:
- Học thuộc các bảng nhân chia.
- Biết cách nhân nhẩm , trừ nhẩm thành thạo.
* Yêu cầu với giáo viên:
- Chuẩn bị phương pháp và kế hoạch hướng dẫn học sinh: Lời nói phải rõ ràng, dễ hiểu, các bước ngắn gọn. Cần chú trọng với các bài tập hướng dẫn thực hành, chú ý kết hợp giữa thực hành và lí thuyết.
- Cẩn thận, mẫu mực trong việc chấm chữa bài làm của học sinh, giải đáp thắc mắc chi tiết và kịp thời.
2. Hướng dẫn học sinh “ước lượng thương”
Như tôi đã nêu ở trên, việc rèn kĩ năng ước lượng thương là cả một quá trình. Thực tế của vấn đề này là tìm cách nhẩm nhanh thương của phép chia. Để làm việc này, ta thường cho học sinh làm tròn số bị chia và số chia để dự đoán chữ số ấy . Sau đó nhân lại để thử. Nếu tích vượt quá số bị chia thì phải rút bớt chữ số đã dự đoán ở thương, nếu tích còn kém số bị chia quá nhiều thì phải tăng chữ số ấy. Như vậy, muốn ước lượng thương cho tốt, học sinh phải thuộc bảng nhân chia và biết nhân nhẩm trừ nhẩm nhanh. Bên cạnh đó, các em cũng phải biết cách làm tròn số thông qua một số thủ thuật thường dùng là che bớt chữ số. Cách làm như sau:
a) Làm tròn giảm :
Nếu số chia tận cùng là 1; 2 hoặc 3 thì ta làm tròn giảm (tức là bớt đi 1;2 hoặc 3 đơn vị ở số chia). Trong thực hành, ta chỉ việc che bớt chữ số tận cùng đó đi (và cũng phải che bớt chữ số tận cùng của số bị chia)
Ví dụ 1 :
Muốn ước lượng 72 : 24 = ? Ta làm tròn 72 70 ; 24 20 , rồi nhẩm 70 chia 20 được 3 , sau đó thử lại : 24 x 3 = 72 để có kết quả 72 : 24 = 3
Trên thực tế việc làm tròn : 72 70 ; 24 20 (A) được tiến hành bằng thủ thuật cùng che bớt hai chữ số 2 và 4 ở hàng đơn vị để có 7 chia 2 được 3 chứ ít khi viết rõ như ở (A)
Ví dụ 2 : Có thể ước lượng thương 568 : 72 = ? như sau :
- Ở số chia ta che 2 đi
- Ở số bị chia ta che 8 đi
- Vì 56 : 7 được 8, nên ta ước lượng thương là 8
- Thử lại: 72 x 8 = 576 > 568 Vậy thương ước lượng (8) hơi thừa, ta giảm xuống 7 và thử lại: 72 x 7 = 504; 568 – 504 = 64 <72
Do đó ta được: 568 : 72 được 7
b) Làm tròn tăng:
Nếu số chia tận cùng là 7; 8 hoặc 9 thì ta làm tròn tăng( tức là thêm 3; 2 hoặc 1 đơn vị vào số chia). Trong khi thực hành , ta chỉ việc che bớt chữ số tận cùng đó đi và thêm 1 vào chữ số liền trước (đồng thời che bớt chữ số tận cùng của số bị chia).
Ví dụ 1 : Muốn ước lượng 86 : 17 = ? Ta làm tròn 17 theo cách che bớt chữ số 7 như ở ví dụ 1a, nhưng vì 7 khá gần nên ta phải tăng chữ số 1 ở hàng chục thêm 1 đơn vị để được 2 , còn đối với số bị chia 86 ta vẫn làm tròn giảm thành 80 bằng cách che bớt chữ số 6 ở hàng đơn vị
Kết quả ước lượng 8 : 2 = 4
Thử lại:17 x 4 = 68 < 85 và 85 – 68 = 17 nên thương ước lượng hơi thiếu do đó ta phải tăng thương đó (4) lên thành 5 rồi thử lại: 17 x 5 = 85;
86 – 85 = 1; 1 < 17. Suy ra: 86 : 17 được 5
Ví dụ 2 : Có thể ước lượng thương 5307 : 581 như sau :
- Che bớt 2 chữ số tận cùng của số chia , vì 8 khá gần 10 nên ta tăng chữ số 5 lên thành 6
- Che bớt 2 chữ số tận cùng của số bị chia
- Ta có : 53 : 6 được 8 Vậy ta ước lượng thương là 8
- Thử lại : 581 x 8 = 4648 ; 5307 – 4648 = 659 > 581 Vậy thương ước lượng (8) hơi thiếu , ta tăng lên 9 rồi thử lại: 581 x 9 = 5229 ; 5307 – 5229 = 78< 581
- Vậy 5307 : 581 được 9
c) Làm tròn cả tăng lẫn giảm:
Nếu số chia tận cùng là 4; 5 hoặc 6 thì ta nên làm tròn cả tăng lẫn giảm rồi thử lại các số trong khoảng hai thương ước lượng này.
Ví dụ : 245 : 46 = ?
- Làm tròn giảm 46 được 4 ( che chữ số 6) và làm tròn tăng 46 được 50 (che chữ số 6 và tăng 4 lên thành 5)
- Làm tròn giảm 245 được 24 (che chữ số 5)
- Ta có: 24 : 4 được 6 ; 24 : 5 được 4
Vì 4 < 5 < 6 nên ta thử lại với số 5
46 x 5 = 230 ; 245 – 233 = 15 < 46
=> Vậy 245 : 46 được 5
Trong thực tế , các việc làm trên được tiến hành trong sơ đồ của thuật tính chia (viết) với các phép thử thông qua nhân nhẩm và trừ nhẩm. Nếu học sinh chưa nhân nhẩm và trừ nhẩm thành thạo thì lúc đầu có thể cho các em làm tính vào nháp , hoặc viết bằng bút chì, nếu sai thì tẩy đi rồi điều chỉnh lại.
Để việc làm tròn số được đơn giản, ta cũng có thể chỉ yêu cầu học sinh làm tròn số chia theo đúng quy tắc làm tròn số : còn đối với số bị chia luôn cho làm tròn giảm bằng cách che bớt chữ số ( cho dù chữ số bị che có lớn hơn 5) Việc này nói chung không ảnh hưởng mấy đến kết quả ước lượng. Chẳng hạn : trong ví dụ 2(a) nếu ta làm tròn số bị chia thành 560 (trên thực tế là che bớt 8) thì kết quả ước lượng lần thứ nhất cũng là 8 , vẫn giống như kết quả ước lượng thương khi ta làm tròn “đúng” số 568 thành 570.
Ngoài ra có trường hợp học sinh không thuộc bảng chia chúng ta có thể hướng dẫn cho các em nhẩm bảng nhân để tìm thương bằng cách coi số bị chia là tích, số chia đã làm tròn và nhẩm nhân một số nào với số chia để có tích bằng với số chia hoặc bé hơn số chia.
Ví dụ: Thực hiện phép chia: 2544 : 48 = ?
Đặt dọc phép tính và thực hiện:
(Ta làm tròn 48 -> 50 ; 254 -> 250 (bỏ hoặc che số 0) ta có 25 : 5, học sinh có thể đọc nhẩm bảng nhân 5 để tìm 5 nhân với số nào để được thương là 25 hoặc bé hơn 25.
Sau khi tìm được 5 x 5 = 25, hướng dẫn học sinh ghi thương là 5 và đem nhân với 48 (5 x 48 = 240) => (254 – 240 = 14)
=> (14 hạ 4 ta được144), (144 làm tròn => 150); học sinh nhẩm tiếp
( 5 x 3 = 15) nhân (3 x 48 = 144) và (144 – 144 = 0)
Vậy phép chia có thương là 53.)
3. Hướng dẫn học sinh thực hành - luyện tập:
- Sau khi các em đã nắm được cách ước lượng thương, bên cạnh những bài
củng cố sau mỗi ví dụ đã hướng dẫn ngay tại tiết dạy theo chương trình vào buổi học chính khóa. Tôi đã cho các em tiếp tục luyện tập bằng những bài tập luyện tập thêm vào những tiết ôn toán, cũng như ở nhà.Trong khi các em luyện tập, tôi luôn theo dõi sát sao và giúp đỡ kịp thời cho những em yếu, chấm và chữa bài cụ thể cho cả lớp cùng theo dõi. Sau đó cho các em yếu thực hiện lại với bài tập ví dụ mới ngay tại lớp.
- Tôi thường chú ý ra bài luyện tập với số lượng và mức độ phù hợp cho từng đối tượng học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu và có kiểm tra sửa chữa và khen ngợi động viên kịp thời để tạo sự hứng thú học tập của các em với phép tính này.
III.2. Tính mới, tính sáng tạo
III.2.1. Tính mới
“ Phép chia cho số có nhiều chữ số” là một trong những phép tính khó nhất ở Tiểu học. Điểm mấu chốt trong biện pháp tính này là vấn đề ước lượng các chữ số của thương.
Việc rèn kĩ năng ước lượng thương là cả một quá trình, bắt đầu từ lớp Ba, lên lớp Bốn và lớp Năm các em tiếp tục được thực hiện ở mức độ nâng cao dần. Ở lớp 4, việc giới thiệu và rèn kĩ năng ước lượng thương được thực hiện trong bài “Chia cho số có hai chữ số” và “Chia cho số có ba chữ số”. Lên lớp 5 lại được lặp lại qua phần “Chia số thập phân”. Thực chất của vấn đề là “ Tìm cách nhẩm nhanh thương của phép chia một số n hoặc (n + 1) chữ số cho một số có n chữ số (với n = 2 hoặc 3). Nếu nắm chắc được cách ước lượng thương và có kĩ năng ước lượng thương thì phép chia này đối với học sinh không còn là một khó khăn nữa và cũng nhờ thế mà các em có thể dễ dàng giải các bài toán liên quan đến phép tính này mà không tốn nhiều thời gian, tạo thuận lợi và hứng thú cho học sinh say mê học Toán, yêu thích môn Toán.
III.2.2. Tính sáng tạo
Thực tế của vấn đề “Chia cho số có nhiều chữ số” là tìm cách ước lượng thương để nhẩm nhanh thương của phép chia. Để làm việc này, ta nên cho học sinh làm tròn số bị chia và số chia để dự đoán chữ số(thương) trong mỗi lượt chia. Sau đó nhân lại để thử. Nếu tích vượt quá số bị chia thì phải rút bớt chữ số đã dự đoán ở thương, nếu tích còn kém số bị chia quá nhiều thì phải tăng chữ số ấy. Như vậy, muốn ước lượng thương cho tốt, học sinh phải thuộc bảng nhân chia và biết nhân nhẩm trừ nhẩm nhanh. Bên cạnh đó, các em cũng phải biết cách làm tròn số thông qua một số thủ thuật thường dùng là che bớt chữ số như làm tròn giảm, làm tròn tăng hoặc làm tròn cả tăng và giảm với số bị chia và số chia.
III.3. Phạm vi ảnh hưởng, Khả năng áp dụng của sáng kiến
Các giải pháp được đề cập trong sáng kiến của tôi đã được áp dụng trong thực tế tại trường Tiểu học Hùng Tiến - nơi tôi hiện đang công tác đạt hiệu quả khá cao và có thể áp dụng trong các năm học sau này trong trường hay các trường Tiểu học khác.
III.4. Hiệu quả, lợi ích thu được của sáng kiến
a) Hiệu quả kinh tế:
- Áp dụng kinh nghiệm trên cho năm học này tôi thấy nhiều em đã tiến bộ rõ rệt, 95% số học sinh đều thực hiện được phép chia cho số có nhiều chữ số. Trong đó 60% là số học sinh có kĩ năng ước lượng thương và thực hiện phép tính chia khá nhanh, 30% số học sinh thực hiện chia được song chưa nhanh lắm , chỉ còn lại 5% - 10% số học sinh chia còn chậm nhưng vẫn chia được theo cách đã được hướng dẫn ước lượng thương này.
- Khi nắm được cách ước lượng thương, học sinh tính toán nhanh hơn. Việc này giúp các em giảm bớt thời gian làm tính, tăng thời gian luyện tập, thực hành được nhiều dạng bài tập khác.
b) Hiệu quả về mặt xã hội:
- HS đã có sự ham thích môn Toán nói chung và say sưa với các phép tính chia cho số có nhiều chữ số nói riêng , thực hiện chia một cách dễ dàng, không còn lo sợ khi làm toán có liên quan đến phép tính được xem là khó này nữa.
- Đối với học sinh lớp 4B do tôi chủ nhiệm trong năm học này thì vào những tuần cuối kì I, kĩ năng ước lượng thương của các em đã được nâng cao (với học sinh khá, giỏi). Số học sinh trung bình, yếu đầu năm do không chia được nay đã thực hiện khá tốt phép chia này, nhiều em trong số đó không còn sợ phép tính chia nữa, đa số các em đã tự tin vận dụng vào giải toán nhanh và đúng.
- Kết quả đó tuy chưa cao nhưng đó cũng là thành quả bản thân tôi đã đạt được, là niềm vui của cả phụ huynh và học sinh lớp tôi nói riêng và cả khối 4 nói chung.
c) Giá trị làm lợi khác:
Với những việc làm trên và kết quả đạt được, tôi đã rút ra được bài học kinh nghiệm quý báu cho mình đó là: Khi dạy học sinh học Toán với phép tính chia, đặc biệt là chia cho số có nhiều chữ số. Điều mà giáo viên cần nắm cho được là chủ chốt của phép tính này chính là cách ước lượng thương và cần có phương pháp hướng dẫn học sinh ước lượng thương. Không chỉ dùng lại cách hướng dẫn ước lượng thương chỉ khi học bài phép chia mà phải thực hành nhắc lại thường xuyên khi học sinh giải các bài toán có liên quan đến phép chia. Khi đã nắm được điều này thì giáo viên không còn cảm thấy băn khoăn khi dạy và học sinh cũng không còn thấy lo lắng với phép tính này cũng như việc học toán nói chung nữa. Bên cạnh đó, giáo viên cần có kế hoạch dạy học cụ thể với bài dạy liên quan đến phép tính chia (chia cho số có nhiều chữ số); kiên trì, nhiệt tình để dẫn dắt, hướng dẫn học sinh thực hiện phép chia với bài mới cũng như luyện tập, yêu cầu động viên học sinh cố gắng học thuộc các bảng nhân chia, rèn cách nhân nhẩm trừ nhẩm thành thạo để tạo sự thuận lợi trong khi thực hiện ước lượng thương với phép chia. Giáo viên cần cho học sinh luyện tập nhiều để các em nắm chắc cách ước lượng thương mỗi dạng làm tròn số theo quy tắc làm tròn số đã học.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi trong dạy Toán 4 để hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng ước lượng thương trong phép chia cho số có nhiều chữ số. Tôi đã áp dụng có hiệu quả và sẽ áp dụng tiếp trong những năm học tới. Vậy tôi mạnh dạn đưa ra để đồng nghiệp cùng thảo luận và có thể tham khảo vận dụng. Đề tài này chắc chắn sẽ có những điều chưa hoàn thiện,rất mong đồng nghiệp cùng trao đổi để tôi có thêm những kinh nghiệm trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả của giờ dạy toán giúp học sinh có những giờ học toán hứng thú say mê. Tôi rất hy vọng và chờ đón sự góp ý chân thành của các đồng chí phụ trách chuyên môn, lãnh đạo nhà trường và đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn.
|
Vĩnh Bảo, ngày tháng 01 năm 2022
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
Nguyễn Thị Liên Hương
|